Nhật Bản duy trì là thị trường nhập khẩu tôm lớn thứ hai của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2019, chiếm 19,7% tổng giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam. Trong ba tháng đầu năm nay, Nhật Bản là thị trường duy nhất trong số các nhà nhập khẩu tôm lớn của Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng khả quan. Xuất khẩu tôm Việt Nam sang Nhật Bản trong những năm gần đây tăng nhờ nhu cầu tốt và lợi thế từ các hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Vi·ªát Nam ƒëã ký k·∫øt bao nhiêu Hi·ªáp ƒë·ªãnh th∆∞∆°ng m·∫°i t·ª± do FTA v·ªõi các n∆∞·ªõc?
ƒê·∫øn ngày 15/08/2023 Vi·ªát Nam ƒëã ký 16 Hi·ªáp ƒë·ªãnh th∆∞∆°ng m·∫°i t·ª± do FTA ·ªü c·∫£ c·∫•p ƒë·ªô song ph∆∞∆°ng và ƒëa ph∆∞∆°ng. Vi·ªác ký k·∫øt hi·ªáp ƒë·ªãnh th∆∞∆°ng m·∫°i t·ª± do FTA góp ph·∫ßn thúc ƒë·∫©y tƒÉng tr∆∞·ªüng, ƒëa d·∫°ng hóa th·ªã tr∆∞·ªùng xu·∫•t nh·∫≠p kh·∫©u c·ªßa n∆∞·ªõc ta.
Các Hi·ªáp ƒë·ªãnh th∆∞∆°ng m·∫°i t·ª± do FTA chung gi·ªØa Vi·ªát Nam v·ªõi các n∆∞·ªõc?
FTA CHUNG GI·ªÆA VI·ªÜT NAM V·ªöI CÁC N∆Ø·ªöC
AFTA, ACFTA, AIFTA, AKFTA, AJCEP, AANZFTA, AHKFTA, RCEP, CPTPP
CAMBODIA, INDONESIA, LAOS, MYANMAR, PHILIPINES, THAILAND
AFTA, ACFTA, AIFTA, AKFTA, AJCEPAANZFTA, AHKFTA, RCEP
Kinh tế Việt Nam khi gia nhập các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Trong những năm gần đây, Việt Nam đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào mạng lưới FTA thế hệ mới. Theo đó, tính đến năm 2022, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 17 FTA, trong đó có 15 hiệp định đã có hiệu lực và đang thực thi cam kết, 02 hiệp định đang đàm phán. Điều đó đã góp phần không nhỏ giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, củng cố thị trường truyền thống, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia vào các thị trường tiềm năng trên thế giới, cũng như giúp cho người tiêu dùng Việt Nam có thể tiếp cận được nguồn hàng phong phú, chất lượng với giá cả hợp lí…
Thuật ngữ “Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới” được sử dụng để chỉ các FTA với những cam kết sâu rộng và toàn diện, bao hàm những cam kết về tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ như các “FTA truyền thống”; mức độ cam kết sâu nhất (cắt giảm thuế gần như về 0%, có thể có lộ trình); có cơ chế thực thi chặt chẽ và hơn thế, nó bao hàm cả những lĩnh vực được coi là “phi truyền thống” như: Lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư…
Việt Nam hiện nay đã tham gia một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) – EVFTA.
Trong 3 năm gần đây, Việt Nam được xếp là 1 trong 20 quốc gia có quy mô thương mại quốc tế lớn nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng cao (khoảng 12,5% trở lên) và liên tục có kết quả xuất siêu, 10 tháng đầu năm 2023 xuất siêu 24,6 tỷ USD.
Để có được kết quả như vậy, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương có liên quan đã đẩy mạnh các hoạt động đàm phán song phương, đa phương, tập trung vào các thị trường trọng điểm, nhiều tiềm năng. Tính đến nay, bên cạnh việc tham gia thực thi nhiều Hiệp định FTA với độ phủ rộng gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hầu hết là những nền kinh tế lớn trên thế giới, Việt Nam cũng đang tiếp tục đàm phán FTA với Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA, bao gồm 4 nước: Thụy Sỹ, Na Uy, Ai-len, Liechtenstein), Cộng đồng thị trường Nam Mỹ (MECOSUR), UAE và Canada ; đồng thời, tiếp tục nghiên cứu khả thi việc đàm phán, ký kết các thỏa thuận thương mại, ưu đãi thương mại với một số đối tác mới có tiềm năng, các đối tác có nền kinh tế bổ trợ với Việt Nam và những đối tác có tiềm lực về khoa học công nghệ để tiến tới đàm phán FTA trong thời gian tới.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, việc gia nhập các FTA thế hệ mới cũng đem lại cho nền kinh tế Việt Nam không ít thách thức, buộc phải đối mặt và vượt qua để phát triển, bắt kịp với xu thế hội nhập của thế giới.
1. Kinh tế Việt Nam khi gia nhập các FTA thế hệ mới
Hiện nay, với xu hướng phát triển ngày càng hiện đại, các phương thức giao dịch, dịch vụ thương mại mới cũng không ngừng ra đời. Theo đó, các hoạt động đầu tư, hợp tác kinh doanh, chuyển giao công nghệ… giữa các quốc gia, nhà sản xuất, đầu tư cũng được tích cực đẩy mạnh. Tình hình này dẫn đến thỏa thuận hợp tác giữa các quốc gia cũng ngày càng phát triển và mở rộng. Trước đây, các FTA truyền thống chỉ cơ bản là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng, lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng bằng việc cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên, bên cạnh việc tiếp tục duy trì chế độ thuế quan độc lập với hàng nhập khẩu từ các quốc gia bên ngoài FTA.
Hiện nay, với xu hướng hội nhập quốc tế, các FTA thế hệ mới đã có sự mở rộng và toàn diện hơn trong nhiều lĩnh vực hoạt động đầu tư, mua sắm công, chính sách cạnh tranh, các biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, lao động, môi trường, thậm chí còn gắn với những vấn đề dân chủ, nhân quyền hay chống khủng bố3... Khi có hiệu lực, các FTA thế hệ mới này sẽ tác động mạnh mẽ tới thể chế của các bên liên quan. Việc gia nhập các FTA thế hệ mới sẽ có nhiều lợi thế và tạo thuận lợi rõ rệt cho sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới do các FTA thế hệ mới xóa bỏ phần lớn thuế quan cho hàng hóa của các quốc gia thành viên với mức cam kết sâu nhất là cắt giảm thuế gần như về 0% và có thể áp dụng với hầu hết các dòng thuế. Đặc biệt là với FTA lớn như FTA giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… trong đó có các đối tác đặc biệt lớn của Việt Nam như Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Nhật Bản… Đây chính là cơ hội lớn cho các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam có thể tăng khả năng cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới, đưa sản phẩm Việt Nam đến với thế giới, tạo lợi thế cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể bước vào sân chơi quốc tế, từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trước tình hình nền kinh tế toàn cầu đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc chiến thương mại, mâu thuẫn giữa các nước lớn và cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đã tác động trực tiếp làm suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu và gây ra sự gia tăng trong chủ nghĩa bảo hộ thương mại, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế mở của Việt Nam. Bên cạnh đó, nền kinh tế thế giới cũng đang phải gánh chịu các tác động mạnh mẽ của đại dịch Covid-19. Diễn biến hết sức phức tạp của đại dịch Covid-19 đã làm gián đoạn các hoạt động kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới, đẩy nền kinh tế thế giới trước bờ vực suy thoái nghiêm trọng, tốc độ tăng trưởng của các quốc gia đều giảm sâu, hàng loạt các doanh nghiệp phá sản, kiệt quệ. Tuy nhiên, đứng trước những tác động khủng hoảng đó, nền kinh tế Việt Nam là một trong nhóm nhỏ các nền kinh tế vẫn thành công trong việc duy trì mức tăng trưởng dương. Để đạt được điều đó, phần lớn nhờ vào xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực tham gia vào các FTA thế hệ mới. Năm 2020, xuất khẩu đạt 281 tỉ USD, tăng 6,5% so với năm 2019, trong đó có phần đóng góp quan trọng của thương mại với các thị trường FTA mới kí kết; 15 FTA được thực thi cho phép hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng thuế suất ưu đãi khi tiếp cận thị trường ở hơn 50 quốc gia, bao gồm hầu hết các đối tác thương mại lớn nhất, chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam đã kí kết rất nhiều FTA với các quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất có FTA với gần hết 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới, ngoại trừ Mỹ, do Mỹ rút khỏi CPTPP và hiện nay giữa Việt Nam và Mỹ có kí Hiệp định Thương mại song phương (BTA) vào năm 2000. Tính đến năm 2022, Việt Nam đã có 15 FTA có hiệu lực gồm: Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA); FTA ASEAN - Trung Quốc (ACFTA); FTA ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP); Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA); FTA ASEAN - Ấn Độ (AIFTA); FTA ASEAN - Australia - New Zealand (AANZFTA); FTA Việt Nam - Chile (VCFTA); FTA Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA); Hiệp định FTA Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á Âu (VN - EAEU FTA); CPTPP; FTA ASEAN và Hồng Kông (Trung Quốc) (AHKFTA), EVFTA; FTA Việt Nam - Vương Quốc Anh (UKVFTA); FTA ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc... (RCEP) và hiện đang đàm phán 02 FTA. Song song với việc đàm phán gia nhập WTO, thời gian trước năm 2010, Việt Nam đã kí kết FTA với các đối tác thương mại hàng đầu khu vực như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Theo đó, các FTA được kí kết trước năm 2010 đều dựa trên nguyên tắc của WTO đã được thiết lập từ trước, điều này không tạo ra được bước đột phá, mới mẻ, chưa phát huy hết sức mạnh của FTA.
Mặc dù cũng là FTA giữa các cường quốc, nhưng trước năm 2010, đa phần các FTA chỉ tập trung vào các đối tác khu vực châu Á, chưa mạnh dạn vươn tới các khu vực châu Âu và châu Mỹ. Trước thực tiễn đó nên khi bước vào giai đoạn 2010 - 2020, Việt Nam đã chủ trương xúc tiến đàm phán các FTA với các nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, EU, Canada… nhằm hỗ trợ mục tiêu công nghiệp hóa của Việt Nam, giảm sự lệ thuộc thương mại vào một khu vực mà mở rộng ra toàn thế giới.
Sự thành công của nền kinh tế Việt Nam bắt đầu bước tiến vượt bậc khi tham gia vào CPTPP, EVFTA, đây được coi là các FTA thế hệ mới, phù hợp xu thế phát triển của thương mại hiện đại. Các FTA thế hệ mới này đã thực sự thiết lập lại những tiêu chuẩn và thông lệ thương mại quốc tế mới, được kì vọng cao là sẽ đem lại những động lực tăng trưởng cho thương mại giữa các quốc gia thành viên.
Tính mới ở các FTA này được thể hiện ở mức độ tự do hóa cao trong thương mại và đầu tư, mang tính cải cách, tiến bộ cao vượt ngoài khuôn khổ của WTO. Do đó, các hiệp định này ngoài việc đem đến cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển ở thị trường thế giới, đẩy mạnh phát triển kinh tế còn góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy tiến trình cải cách chính sách thương mại, các vấn đề về môi trường, đầu tư trong nước cho phù hợp với thông lệ thương mại quốc tế.
2. Tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam
Việc ký kết và tham gia các FTA thế hệ mới sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam thông qua việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, theo đó, kim ngạch xuất nhập khẩu sang các nước đối tác sẽ tăng, củng cố thị trường truyền thống, khơi thông nhiều thị trường tiềm năng trên cơ sở thúc đẩy quan hệ với các đối tác chiến lược kinh tế quan trọng. Cụ thể:
Trong giai đoạn tới, khi các FTA thế hệ mới có hiệu lực, việc dỡ bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư và dịch vụ, mở cửa thị trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ tài chính… sẽ mở ra cơ hội lớn đối với lĩnh vực đầu tư của Việt Nam.
Với các quy định trong các FTA thế hệ mới, các nhà đầu tư sẽ đầu tư chiều sâu vào thị trường Việt Nam, do đó, chất lượng đầu tư nước ngoài sẽ được cải thiện, tạo động lực cho phát triển nền kinh tế. Ví dụ: EVFTA sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư chất lượng cao của EU và các đối tác khác vào Việt Nam. Tính đến nay, các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng, tập trung nhiều nhất vào công nghiệp, xây dựng và một số ngành dịch vụ.
3. Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam
Trước bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, việc gia nhập và kí kết các FTA đã mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn. Thông qua việc mở rộng thị trường xuất khẩu, góp phần nâng cao các mối quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và các cường quốc trên thế giới lên tầm cao mới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội vượt lên trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Do đó, chúng ta cần hiểu rõ, nắm bắt được các lợi thế tạo ra và tận dụng tốt các cơ hội, từ đó đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Một số cơ hội nổi bật khi Việt Nam gia nhập các FTA thế hệ mới như sau:
Bên cạnh những mặt tích cực, việc gia nhập FTA thế hệ mới cũng đem đến không ít thách thức lớn đòi hỏi Việt Nam phải đối mặt và mạnh dạn thay đổi để phát triển cho phù hợp với xu thế chung của thế giới. Một số thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh gia nhập các FTA thế hệ mới:
Với đặc điểm là quốc gia đang phát triển, nguồn vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp còn hạn chế, điều kiện về cơ sở hạ tầng còn yếu. Do vậy, để đạt được mục tiêu đề ra, Việt Nam cần tập trung vào các mục tiêu cụ thể để giải quyết hiệu quả các thách thức trọng tâm trong việc thực thi các FTA thế hệ mới. Nhằm tận dụng các cơ hội đang có và khắc phục một số hạn chế, thách thức, qua đó hướng đến thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển theo hướng lâu dài và bền vững thì cần phải tiếp tục nghiên cứu, xem xét thực hiện một số giải pháp sau:
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT
(Tapchitaichinh.vn) Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực và phát triển. Sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 01/2007 đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU ảnh hưởng thế nào đến kinh tế Việt Nam?
Đến nay, Việt Nam đã ký kết 12 Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Sự ra đời của các FTA và FTA thế hệ mới là xu hướng tất yếu mà các nước, trong đó có Việt Nam nếu muốn tiếp tục phát triển bền vững. Tuy nhiên, do các FTA được ký kết liên tiếp nhau trong thời gian ngắn, nên Việt Nam còn rất nhiều vấn đề cần phải tiếp tục xây dựng và kiện toàn khi tiến hành thực thi các FTA, đặc biệt là đối với 2 FTA thế hệ mới - Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA).…
Theo quan điểm truyền thống, FTA là hiệp định hợp tác kinh tế được ký kết giữa ít nhất hai nước, nhằm cắt giảm các hàng rào thương mại, cụ thể là thuế quan, quota nhập khẩu và các hàng rào phi thuế quan khác, đồng thời, thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các nước này với nhau. Một trong các đặc điểm quan trọng của FTA truyền thống là các thành viên của FTA không có biểu thuế quan chung trong quan hệ thương mại với các nước bên ngoài FTA. Các FTA điển hình theo khái niệm này là FTA ASEAN (AFTA).
Thuật ngữ “thế hệ mới” hoàn toàn mang tính tương đối, được sử dụng để nói về các FTA có phạm vi toàn diện, vượt ra ngoài khuôn khổ tự do hóa thương mại hàng hóa, có nhiều vấn đề mới, mục tiêu là giải quyết các vấn đề mới phát sinh và tồn tại so với các FTA đã ký trước đây như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)… So với các FTA truyền thống, thì các FTA thế hệ mới có các nội dung mới như: Đầu tư, cạnh tranh, mua sắm công, thương mại điện tử, khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển cũng như dành thời gian chuyển đổi hợp lý để nước đi sau có thể điều chỉnh chính sách theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển của mình...
Đáng chú ý, các FTA thế hệ mới không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động và môi trường, mà chỉ khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và các tiêu chuẩn môi trường và phát triển bền vững của Liên Hợp quốc (UN).
Một số nội dung đã có trong các FTA truyền thống và các hiệp định của WTO song được các FTA thế hệ mới hoàn thiện, bổ sung hoàn chỉnh hơn như: Thương mại hàng hóa, bảo vệ sức khỏe động vật và thực vật trong thương mại quốc tế, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, tự vệ thương mại, quy tắc xuất xứ, minh bạch hóa và chống tham nhũng, giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài… điển hình như: Trong các FTA “thế hệ mới”, về thương mại hàng hóa, phần lớn hàng nhập khẩu sẽ được loại bỏ thuế quan; về thương mại dịch vụ và đầu tư, các cam kết đều cao hơn so với cam kết WTO. Như vậy, so với các hiệp định của WTO, thì các FTA “thế hệ mới” chính là các hiệp định “WTO cộng”, với những nội dung trước đây từng bị từ chối, nay lại cần thiết phải chấp nhận, bởi bối cảnh thương mại quốc tế đã thay đổi.
Xét về tổng thể, các nội dung có trong FTA truyền thống và WTO đều đã được FTA thế hệ mới đề cập nhưng với mức độ, chuẩn mực sâu sắc và đầy đủ hơn. Nghĩa là, nếu như với các FTA truyền thống, phạm vi ký kết và ảnh hưởng chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, thì với việc tham gia FTA thế hệ mới, ngoài kinh tế, các lĩnh vực chính trị và ngoại giao cũng sẽ bị tác động và ảnh hưởng toàn diện.
Về mức độ tác động, cũng như tất cả các điều ước quốc tế khác, FTA thế hệ mới mang đến cho Việt Nam và các nước tham gia những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Cụ thể như:
Thứ nhất, sau khi ký kết, Việt Nam sẽ thu hút thêm được nhiều tập đoàn, nhà đầu tư lớn, có tiềm năng từ các nước châu Âu đầu tư vào trong nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế từ sản xuất xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu thô sơ và thủ công sẽ được nâng lên giai đoạn chế biến công nghệ cao, chế biến tinh với giá trị gia tăng cao hơn. Về lâu dài, sẽ thay đổi cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy, với điều kiện các yếu tố khác đều thuận lợi, CPTPP và EVFTA có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2025. Xuất khẩu sẽ tăng thêm được 68 tỷ USD vào năm 2025. Theo nghiên cứu này, Việt Nam có thể là nước được hưởng lợi nhiều nhất trong số các nước tham gia hiệp định. Đối với CPTPP, theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, đến năm 2030 sẽ làm tăng 1,1% GDP; trong điều kiện kích thích năng suất thì tăng trưởng kinh tế đến năm 2030 của Việt Nam có thể tăng tới 3,5%. So với kịch bản không có EVFTA, kết quả mô phỏng cho thấy, lợi ích thu được đối với Việt Nam là 3,2 tỷ USD vào năm 2020 và 7,2 tỷ USD vào năm 2030; xét về thu nhập quốc dân, kinh tế Việt Nam kỳ vọng tăng 2,5% vào năm 2020 và 4,6% vào năm 2030.
Thứ hai, so với các FTA truyền thống, FTA thế hệ mới xóa bỏ phần lớn thuế quan về hàng hóa giữa Việt Nam với các nước, mang lại cơ hội cạnh tranh về giá cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam với các đối thủ (chủ yếu ở các nước châu Á) trên thị trường thế giới. Ví dụ: Trong EVFTA, Việt Nam và EU cam kết xóa bỏ 99% dòng thuế; trong đó, EU cam kết xóa bỏ 85,6%, Việt Nam cam kết xóa bỏ 65% số dòng thuế ngay khi EVFTA có hiệu lực. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng khi đối tác trong FTA thế hệ mới là các nước châu Âu, thị trường tiềm năng và mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp xuất khẩu so với thị trường ở các nước châu Á. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, khi thực thi CPTPP, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vào năm 2030 dự tính tăng tới 3,5%, xuất khẩu tăng 6,9%, nhập khẩu tăng 7,6%.
Thứ ba, các FTA thế hệ mới sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam có thêm cơ hội xuất khẩu sang nhiều thị trường khác nhau, giảm lệ thuộc vào một thị trường cụ thể, giảm rủi ro kinh doanh thương mại khi thực hiện đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Việt Nam được tiếp cận thị trường tốt hơn, với mức thuế suất thấp hơn so với các nước như: Canada, Mexico, Chile và Peru - những nước mà hiện Việt Nam chưa ký kết FTA, hiệp định thương mại song phương. Đặc biệt, CPTPP sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn như Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico; đồng thời, thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển. CPTPP cũng mở cửa cho các nước và vùng lãnh thổ khác tham gia, như: Hàn Quốc, Đài Loan, Indonesia, Thái Lan và Philipines. Điều này giúp Việt Nam tiếp cận được một thị trường rộng lớn, hỗ trợ tăng trưởng. Tác động của EVFTA đến các phân ngành chính và một số ngành mà Việt Nam được hưởng lợi trực tiếp như: Chế biến thực phẩm, gạo, rau quả, dệt may, da giày, điện tử, máy móc, thiết bị và một số phân ngành Dịch vụ (thông tin, giao thông vận tải…).
Thứ tư, việc ký kết thêm các thỏa thuận về lao động giúp cho người lao động Việt Nam luôn được bảo vệ về quyền lợi, nâng cao tiêu chuẩn và điều kiện hỗ trợ ưu đãi trong môi trường làm việc cho người lao động; đồng thời gia tăng thu nhập (ước tính 4 - 5%).
Thứ năm, vấn đề về môi trường cũng được cam kết trong các FTA thế hệ mới, nhằm đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường, gìn giữ và cân bằng các nguồn tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, giải quyết các vấn đề gây ô nhiễm môi trường. Theo đó, các nước tham gia FTA buộc phải xúc tiến nhanh các vấn đề liên quan đến môi trường, nhằm đạt được các tiêu chuẩn về môi trường đã cam kết trong sản phẩm xuất khẩu. Để phù hợp với các quy định quốc tế và phát triển bền vững, Quốc hội đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13; xem xét thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều về quy hoạch của Luật Đất đai, Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước, Luật Đa dạng sinh học, Luật Khí tượng thủy văn, Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo…
Hiện nay, ở Việt Nam, GDP có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn tốc độ tăng hiệu suất sử dụng các tài nguyên quan trọng (đất, nước, năng lượng), cụ thể, số liệu ghi nhận đến tháng 4/2018 cho thấy, diện tích, chất lượng rừng bị suy giảm, mặc dù, tỷ lệ che phủ rừng vẫn đạt hơn 41%; chỉ có 75% khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường tập trung và mới xử lý được 62% lượng nước thải từ các khu công nghiệp, khu chế xuất này; 36% khu công nghiệp, khu chế xuất chưa thực hiện đúng quy định pháp luật về xử lý chất thải rắn nguy hại…
Thứ sáu, với tiêu chuẩn rất cao về quản trị minh bạch và hành xử công bằng, các FTA “thế hệ mới” sẽ giúp Việt Nam kiện toàn, cải thiện hơn nữa bộ máy quản lý nhà nước theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương của công chức nhà nước, từ đó hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam. Đặc biệt, việc hoàn thiện và tăng cường công tác bảo hộ IPR sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư vào những lĩnh vực có hàm lượng tri thức cao.
Thứ bảy, cam kết hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ giúp các thành viên tham gia cải thiện môi trường pháp lý và kinh doanh, cụ thể: Bảo vệ nhà đầu tư trong nước và nước ngoài khỏi sự can thiệp trái pháp luật; Tạo “sân chơi” công bằng cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp tư nhân; đơn giản hóa thủ tục hành chính trong kinh doanh; thuận lợi hóa việc công nhận các tiêu chuẩn sản phẩm; mở cửa thị trường mua sắm công cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ các thành viên của FTA; minh bạch hóa hoạt động các cơ quan nhà nước; bảo hộ IPR của cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài.
Bên cạnh những thuận lợi mà các FTA mang lại thì khó khăn lớn từ các FTA đó chính là tăng sức ép cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế quốc gia, khu vực và toàn cầu. Về mặt xã hội, cạnh tranh tăng lên khi tham gia FTA có thể làm một số doanh nghiệp ở các nước đang phát triển, trước hết là các DNNN, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất lạc hậu rơi vào tình trạng khó khăn, kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao động.
Đối với hệ thống pháp luật, các FTA thế hệ mới đòi hỏi các thành viên tham gia phải thực hiện rà soát toàn bộ hệ thống pháp luật của nước mình, trước hết là các lĩnh vực thương mại, đầu tư, cạnh tranh của DNNN, lao động, đấu thầu, thương mại điện tử, môi trường, giải quyết tranh chấp…
Về thể chế, chính sách, các FTA thế hệ mới cũng đòi hỏi các thành viên phải thực hiện rà soát toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, văn hóa của nước mình để thực hiện minh bạch chính sách; cải cách hành chính; cải cách tư pháp; xử lý mối quan hệ giữa thương mại quốc tế với những vấn đề vốn được coi là “phi thương mại” - “các giá trị xã hội” như: Thương mại và quyền con người, bảo vệ người lao động trong thương mại quốc tế, thương mại và môi trường, thương mại và văn hóa, thương mại và an ninh, bảo đảm an toàn thực phẩm, thương mại, phát triển bền vững và quản trị tốt; quyền của nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, minh bạch chính sách, quyền tự do internet… theo hướng chuyển từ “đối thoại giữa những người khiếm thính” sang thỏa hiệp đàm phán.
Nhìn chung, các FTA “thế hệ mới” tiềm ẩn nhiều hệ quả quan trọng không chỉ đối với hệ thống pháp luật của các thành viên mà còn liên quan tới các chính sách xã hội, văn hoá, kinh tế của các nước này. Các tiêu chuẩn cao về quản trị minh bạch và hành xử công bằng của bộ máy nhà nước sẽ đặt ra những thách thức lớn cho các cơ quan nhà nước. Chính phủ các thành viên của FTA sẽ phải thực hiện chính sách đầy khó khăn khi phải cân bằng giữa thương mại quốc tế với những vấn đề vốn được coi là “phi thương mại”…
Thời gian để triển khai và thực thi các cam kết tại các FTA cũng đang là lực cản lớn đối với Việt Nam. Với các FTA thông thường, tổng thời gian thực thi tất cả các cam kết kéo dài 10 năm. Với các FTA thế hệ mới, Việt Nam sẽ phải thực hiện các cam kết chỉ trong 5 - 7 năm; trong đó, nhiều điều khoản sẽ phải thực hiện ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, nhiều thỏa thuận sẽ phải thực hiện sau 2 - 3 năm.
Với mức độ mở cửa tự do hóa sâu hơn, các lĩnh vực còn thiếu, còn yếu của Việt Nam như: Giao thông vận tải, IPR, đào tạo nguồn nhân lực, lao động kỹ thuật có tay nghề cao… sẽ khó có thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn khi phân luồng đầu tư từ nước ngoài với dòng vốn mạnh mẽ đổ vào trong nước, cạnh tranh cao sẽ gây sức ép đối với doanh nghiệp. Áp lực của việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng lên nhiều ngành nghề đang được bảo hộ trong nước (ô tô, mía đường, xăng dầu…); nhiều sản phẩm truyền thống của Việt Nam chưa được đăng ký theo Luật Sở hữu trí tuệ quốc tế dẫn đến nguy cơ mất thương hiệu, cạnh tranh yếu trên thị trường nước ngoài; trình độ nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu để thực hiện các thao tác vận hành máy móc công nghệ cao, thiếu lao động sử dụng thành thạo ngôn ngữ nước ngoài.
Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong thực thi cam kết FTA thế hệ mới
Phải khẳng định, Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới bởi các lý do sau:
Một là, nhận thức được các cơ hội và thách thức khi hội nhập quốc tế về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ các lĩnh vực khác, các FTA thế hệ mới được ký kết bao gồm các cam kết thương mại mới như: Đầu tư, cạnh tranh, mua sắm công, thương mại điện tử… và các nội dung phi thương mại như: Lao động, môi trường, phát triển bền vững và quản trị tốt…
Hai là, tham gia FTA thế hệ mới sẽ giúp Việt Nam mở rộng quan hệ thương mại với các nước Việt Nam chưa từng cam kết về thương mại, mang lại cơ hội liên kết kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, thúc đẩy phát triển nền kinh tế trong nước.
Việc tham gia CPTPP và EVFTA sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình cải cách trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Cụ thể:
(i) Về vấn đề lao động và môi trường
Được đưa vào và nhấn mạnh trong FTA thế hệ mới, do sự thay đổi của toàn cầu hóa về lao động và biến đổi khí hậu ngày càng sâu sắc. Tiêu chuẩn về chất lượng lao động và môi trường trong các FTA thế hệ mới được khẳng định cần thực hiện theo tiêu chuẩn lao động của ILO và các tiêu chuẩn môi trường, phát triển bền vững của Liên Hợp quốc. Các FTA thế hệ mới đòi hỏi phải điều chỉnh luật, chính sách không chỉ về kinh tế, thương mại mà cả các vấn đề phi thương mại như: Quyền của người lao động, tiêu chuẩn lao động, tự do hiệp hội - công đoàn, môi trường, DNNN, mua sắm chính phủ… Để thực thi đúng cam kết trong FTA thế hệ mới, Việt Nam đã và đang thay đổi, bổ sung thêm các quy định cụ thể về Luật Lao động, nâng chuẩn chế độ bảo hiểm và lương cơ bản cho người lao động… nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động Việt Nam khi làm việc cho các tổ chức, DN trong nước và nước ngoài. Bộ luật Lao động mới dự kiến sẽ có hiệu lực vào năm 2019, so với Bộ luật Lao động năm 2012, Bộ luật này đã thay đổi 11 nội dung.
Đặc biệt, để chuẩn bị cho doanh nghiệp trong nước đón đầu các cơ hội và giảm áp lực cạnh tranh từ nước ngoài, Chính phủ cũng đã ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng nhiều chương trình hành động để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, như: Nghị quyết số 19-NQ/CP được ban hành từ năm 2014 đến nay đã giúp tăng cường, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia với những tiêu chí cụ thể; Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; Chỉ thị số 38/CT-TTg ngày 19/10/2017 về tăng cường thực hiện và khai thác hiệu quả các FTA đã có hiệu lực, trong đó yêu cầu các bộ, ngành, địa phương nhận thức rõ tầm quan trọng của việc gia nhập các FTA; nghiên cứu và phân tích rõ các cơ hội, thuận lợi, khó khăn và thách thức...
Về công tác cải cách, hoàn thiện thể chế
Việc rà soát, chỉnh sửa, bãi bỏ các quy định pháp luật không còn phù hợp, đảm bảo thực hiện đúng theo luật quốc tế có liên quan đến các FTA Việt Nam tham gia ký kết… đã và đang được Chính phủ chỉ đạo thực hiện quyết liệt theo chủ trương của Đảng. Cụ thể, trong những năm qua, Việt Nam đã lấy ý kiến nhân dân và hoàn chỉnh dự thảo, ban hành nhiều Luật mới thay thế, bổ sung như: Luật Lao động, Luật Tổ chức chính phủ và chính quyền địa phương; Luật Quản lý ngoại thương… Ngoài ra, Chính phủ thông qua Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1254/QĐ-TTg về phê duyệt Kế hoạch hành động thúc đẩy cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN, cải cách công tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và tạo thuận lợi thương mại giai đoạn 2018-2020…
Tham gia ký kết các FTA thế hệ mới có nghĩa là Việt Nam đã bước vào sân chơi lớn, chấp nhận đương đầu với khó khăn, thách thức mới. Để hội nhập quốc tế thành công, đòi hỏi sự phối hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ giữa các cấp, các ngành Trung ương và địa phương với doanh nghiệp; đồng thời, đẩy mạnh liên kết, hợp tác với các quốc gia trên thế giới, tận dụng hiệu quả các cơ hội, điều kiện thuận lợi, cùng với các nước thành viên chủ động ứng phó với các tình huống khó khăn mới phát sinh trên các lĩnh vực, trao đổi kinh nghiệm để tìm ra các giải pháp đổi mới phù hợp, thúc đẩy phát triển bền vững.
ThS. Trần Thị Bích Nhân, ThS. Đỗ Thị Minh Hương